Buồn Thay
Buồn thay đại dịch toàn cầu
Mùa đông heo hút bạc màu khói sương
Bởi ai gieo rắc tang thương
Bắc Kinh Vũ Hán thê lương thế này
Ngậm ngùi chua chát đắng cay
Lợn kêu eng éc chuột đầy mả hoang
Xác người không liệm bẽ bàng
Lò thiêu chật chội phũ phàng ngày đêm
Hỏa Thần Sơn, dọa xây thêm
Bầu trời ảm đạm bên thềm quạ đen
Tập đoàn sát máu bon chen
Gạt lường thế giới nhỏ nhen độc tài
Mưu đồ thống trị nhân loài
Tham lam ích kỷ bi ai ngập tràn
Thiên tai nhân họa ngút ngàn
Cỏ cây đồng ruộng bầy đàn xâm lăng
Biển Đông quen thói hung hăng
Công trình văn hóa san bằng sạch trơn
Trẻ gìa lăn lóc tủi hờn
Xế chiều đom đóm chập chờn xác xơ
Hồn ma bóng quế bơ vơ
Cách ly trần thế dật dờ đi đâu?
Dập vùi bãi bể nương dâu
Hung hăng châu chấu giang đầu cạn khô
Chặn nguồn nước chiếm sông hồ
Thức ăn độc hại tham ô bạc tiền
Lo toan xây dưng chính quyền
Khinh thường mạng sống nhãn tiền trả vay
Nợ nần nghiệp quả xưa nay
Thương thiên hại lý bủa vây lưới trời
Não nùng giọt lệ tuôn rơi
Vi trùng cấy ghép khóc cười ác ma!
24.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 12
Mùa thu đến khí dương chẳng trọn
Mưa dầm dề đội nón trên đường
Hơi sương lạnh lẽo chán chường
Tiết đông heo hút thê lương bức rèm
Làn gió thổi lem nhem tan giá
Keo dán hình đất đá sượng câm
Ráo khô bực bội nóng hầm
Bùn lầy nhão nhoẹt cát lầm nứt đê
Câu khí hậu bất tề nên nhớ
Bờ sông quê sụt lở theo nhau
Cỏ cây tàn tạ khổ đau
Mong sao tương đắc trước sau hóa lành
Chỉ e ngại tranh giành khách khí
Không thuận hòa vị trí soán ngôi
Ngũ hành điên đảo than ôi!
Ghế cha phế truất con ngồi lên trên
Sinh bệnh tật cố nhiên nóng giận
Tiều cho rằng khí vận thế này
Mấy năm thuận nghịch thưa thày
Dẫn đưa y học xưa nay tận tường
Khắc tư thiên lẽ thường năm vận
Bởi tư thiên sinh vận thuận tâm
Năm nào biến chứng nghịch tầm
Vận đồng với khí là năm thiên phù
Sáu mươi giáp một
chu kỳ đến
Mười hai năm xuất hiện một lần
Kể ra Mậu tý, Mậu dần
Mậu thân, Mậu ngọ, Bính Thần, Tuất chi
Năm Kỷ sửu, Kỷ vi tính tới
Mão Dậu hai Ất Hợi Tý Đinh
Cho hay vận khí đồng tình
Mười hai năm ấy chúng sinh thiên phù
Vận khí đến vân du mấy lối
Thấp thỏm coi tuế hội tám chi
Đếm đầu Kỷ sửu, Kỷ vì
Giáp thìn, Giáp tuất, thổ vi thổ làm
Đinh mão mộc nhăm nhăm Ất dậu
Kim tiếp theo Mậu ngọ lửa dầu
Coi chừng Bính tý mưa ngâu
Thiên phù tuế hội hợp nhau nhất thì
Thái ất kia bốn chi
hội đủ
Từ Kỷ sửu chiêu dụ Kỷ vi
Theo nhau Ất dậu hơi đi
Một bờ Mậu ngọ thầm thì gió may
Coi năm tháng giờ ngày tính toán
Cờ tư thiên mà đoán cơ duyên
Gỉa như Mậu ngọ thường niên
Vận đồng với khí từng thiên rõ rành
Gặp năm ấy khó lành bệnh tật
Sách nội Kinh coi thật bao la
Máy trời trắc trở sơn hà
Mười hai năm lại sinh ra bất hòa.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
20.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 13
Sự trái ngược nhạt nhòa hơi khí
Mười hai năm định vị thiên hình
Nguy nan tạo vật điêu linh
Đất trời giành giật chúng sinh thảm sầu
Khi tiểu nghịch biết đâu sinh vận
Thuận hóa thành phấn chấn vui thay
Nhiệm màu nào có ai hay
Can chi nhộn nhịp cho ngay đức phù
Có hai ngôi vân du tuế hội
Vận suy ty rẽ lối xét bàn
Nội kinh hai chữ khuyên can
Hại cang thừa chế cản ngăn rõ ràng
Hữu dư bất túc càng cố gắng
Xuất nhập cho thăng giáng hẳn hoi
Phân minh mọi sự rạch ròi
Mỗi năm đồ vẽ cần coi tận tường
Soi xét kỹ bất thường tà chính
Bậc lương y suy tính trước sau
Hai luồng khí vẫn đua nhau
Thành tâm hóa dục khổ đau tiêu dần
Bầy dân đen xa gần trông ngóng
Y đức cao trọng vọng tiếng thày
Kê đơn bắt mạch chuyên tay
Bệnh tình thuyên giảm thuốc hay mau lành
Lương y giỏi xứng danh từ mẫu
Từ cổ kim khắc dấu ghi tên
Hoa Đà Biển Thước hoàng thiên
Lãn ông Hải Thượng thần tiên giúp đời
Chỉ e rằng các ngươi lười biếng
Đạo chẳng chuyên để tiếng cho ta
Thị phi miệng lưỡi phun ra
Học hành trí trá gần xa tin đồn
Ngư Tiều xin Sư tôn chỉ bảo
Kinh nghĩa trong y đạo kín xa
Nghe câu cang hại chưa ra
Dẫn trong kinh sách bao la vô cùng
Rừng chữ nghĩa mịt mùng vô tận
Muốn tinh thông phải dấn thân đi
Đan Kỳ cửa đạo tinh vi
Uyên thâm y thuật nhất nhì chẳng ngoa
Rừng bản thảo cỏ hoa kỳ lạ
Suối nước trong sỏi đá bất thường
Đủ mười hai bộ đan phương
Biết bao mùi vị mở đường từ bi
Thảo mộc cũng tương tri lân lý
Rất nhiều loài chọn kỹ tìm lâu
Một bộ kim thạch ở đầu
Trăm ba mươi tám đúng câu đá vàng
Bộ thảo thượng rõ ràng quý hiếm
Chín mươi lăm tìm kiếm hột hoa
Thảo trung một bộ nối ra
Chín mươi bảy giống gốc chà lá cây.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
21.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 14
Nhân thuốc ấy bấy chầy một bộ
Có hai mươi vị đủ chi dùng
Ở trong thú vật bổ sung
Chín mươi mốt giống mật cùng da xương
Phải kể đến gan lòng tim phổi
Nào ba mươi bốn cội cánh lông
Bộ trùng ngư thuốc bềnh bồng
Chín mươi chín loại non sông tuyệt vời
Thuốc thường kiếm là nơi cầm điểu
Mễ cốc kia công hiệu cứu đời
Ba mươi tám giống là nơi
Gieo trồng quả phẩm muôn người trọng coi
Bốn mươi giống thảnh thơi bách thảo
Sáu mươi hai hương hảo khỏi lo
Cộng mười hai bộ trời cho
Một ngàn bốn vị trong lò hóa công
Xưa có họ Thần Nông cao nhất
Đã thay trời trị vật yêu dân
Trải qua độc vị thế gian
Một ngày hơn bảy mươi lần trúng thương
Biết bao vật âm dương nếm thử
Chẳng đắn đo do dự cứu người
Dò tìm cây cỏ khắp nơi
Soạn ra sáu tính khác hơi năm mùi
Đã thành hình nằm vùi dưới đất
Đủ đắng cay ngọt lạt mặn chua
Sát sao cách thức theo mùa
Xăm soi ngũ vị kết tua luận bàn
Nhóm vị cay dễ tan trong nước
Chua hay thâu mặn được nhuễn liền
Đắng thường vội vã nóng lên
Ngọt càng chậm lại nhạt nên tận tường
Cay ngọt lạt thuộc dương phải biết
Mặn đắng chua nhất thiết là âm
Có khi dương ở trong âm
Âm trong dương đó dễ nhầm lắm thay
Máy mầu nhiệm cầm tay dày mỏng
Hơi đục trong thất vọng chẳng đồng
Giữ cho sáu tính tương thông
Gọi là thăng giáng ôn lương đến cùng
Đừng lạc lối mê cung tả thực
Bổ hay hư tỉnh thức trên giường
Cho hay tính thuốc nhiều đường
Xưa nay năm vị vẫn thường chia ra
Ngăn tà dâm xâu xa sáu cửa
Sáu đạo binh ngang ngửa ầm ầm
Có mùi cay mát giữ cầm
Mỏi mòn hơi gió âm
thầm nửa phong
Mùi mặn lạnh đề phòng cửa nhiệt
Lửa hừng lên phải biết hậu môn
Đất nơi cửa thấp ướt dồn
Ngửi mùi cay nóng bồn chồn giác quan.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
22.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 15
Nếu cảm thấy khô khan cửa táo
Đường hàn môn lạo xạo băng sương
Ưá trào vị đắng táo hương
Thoảng bay độc khí thất thường ngoại khoa
Mùi thuốc ghẻ mấy toa chăng chớ
Năm vị này úy ố trái nhau
Có mười tám vị trước sau
Còn mười chín vị sắc màu nhuộm pha
Sách sử ghi lời ca ố úy
Mười tám bài hệ lụy phản nhau
Nào là bán hạ qua lâu
Ai hay bối mẫu chân
cầu tử sinh
Này bạch cập rập rình bạch liễm
Cả hai đều xâm chiếm ô đầu
Nguyên hoa hải tảo từ đâu
Ngán sao đại kích từng xâu đọa đày
Vị cam thảo càng day dứt thuốc
Các lọai sâm bạch thược trái ngang
Lê lô quả thật phũ
phàng
Lương tâm thày thuốc bẽ bàng ngàn thu
Hồn ma khóc âm u gió thổi
Lư hoàng kia nóng hổi lửa phun
Phác tiêu cửa ải mây đùn
Thủy ngân chớ để hạp hùn tỳ sương
Mật đà tăng bất lương lang độc
Ba đậu kia thảm khốc xiết bao
Khiên ngưu chăng hợp kết giao
Đinh hương chớ để lẫn vào uất kim
Kinh tam lang nổi chìm khó hợp
Với nha tiêu từng hớp thuốc thang
Nực cười tê giác lăng xăng
Xuyên ô trộn lẫn nhì nhằng thảo ô
Ngũ linh chi từng tô đáng sợ
Với nhân sâm họa đó ích gì
Điều hòa quan quế nhâm nhi
Rất hay khí lạnh thầm thì yến anh
Gặp thạch chi hóa thành công cốc
Phải dày công bốc thuốc chuyên tay
Học hành chăm chỉ tháng ngày
Tinh thông thuận nghịch càng hay mọi đàng
Ngư cho rằng từng thang thuốc quý
Phải đúng liều chẳng lụy đến thày
Vài toa bệnh đã dừng ngay
Dẫn cười đạo hạnh xưa nay tỏ tường
Câu đối chứng lập phương cần nhớ
Quân thần kia tá sứ đo lường
Vua tôi hòa hợp một đường
Đừng gây tạo phản bất lương hại người
Nay ta mở các ngươi mấy cửa
Sẵn bảy phương đại tiểu ngẫu cơ
Phức cùng hoãn cấp sờ sờ
Khá trông mười tễ càng dư tuần hoàn
Tễ là bổ chu toàn thành thạo
Hoạt trọng khinh sáp táo thấp thôi
Bảy phương mười tễ biết rồi
Tán thang minh bạch trau dồi kỷ cương.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
23.3.2020 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét