Thứ Hai, 20 tháng 7, 2020

Thơ Tình Chùm Số 1.234


Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 60

Ngư suy ngẫm âm tinh thấu đặng
Chữ âm này để tặng tiểu nhi
Chờ ngày thiên quý tới kỳ
Tinh thông sáng tỏ đền nghì âm dương


Sách ghi rõ thông thường bổ dưỡng
Đọc kỹ thì thuận nhượng thơ ngây
Tính âm luận ngữ chưa đầy
Trẻ con người lớn bệnh gây chẳng đồng

Vốn chẳng hại bên trong tình bảy
Sáu dâm kia hết thảy luận tà
Một mai ngoại cảm chẳng qua
Cam, kinh, thổ, tả, tích hòa trường đông

Thời hàn cảm thử phong tích nhiệt
Đậu chẩn sang cấp thiết đơn ban
Cản ngăn tạp bệnh lan tràn
Có mười lăm chứng nguy nan rập rình

Ta đơn cử tử sinh cụ thể
Mạch chẩn chờ xin kể ra đây
Trên mi mắt nổi vằn dây
Đỏ lừ chạy suốt lấp đầy con ngươi

Sưng mỏ ác phù nơi dưới ngực
Kể cả khi đau nhức phập phồng
Mũi khô đen sạm bụng gồng
Gân xanh chằng chịt lộn tròng mắt lên

Nhìn không chuyển thường xuyên đờ đẫn
Móng sạm đen chen lấn chân tay
Đột nhiên mất tiếng ai hay
Lưỡi thè ngoài miệng nhớt nhày chảy ra

Trẻ nghiến răng kêu la hay cắn
Thở phì phò ỉa rặn phân chim
Ngáp như cá, bỗng im lìm
Giun thò miệng mũi bóng chìm hồn ma

Chết tức tưởi mẹ cha bất lực
Thày thuốc càng ráng sức cứu người
Than ôi, mười đứa chết mười
Bệnh này khó chữa cảnh đời thê lương

Mười sáu chứng khác thường khinh trọng
Bệnh chứng này trông ngóng nhiều phương
Chẳng qua hư thực hai đường
Chứng hư chứng thực từng chương rạch ròi

Chẳng sai ngoa hẳn hoi công luận
Mười bệnh thường lấn bấn mãi hoài
Chín hư một thực gái trai
Ví như đầu tháng dằng dai vẫn còn

Khắp muôn nơi trăng non ló rạng
Mở lòng gương thực trạng chưa ra
Dạng tròn vành vạch sơn hà
Bổ nhiều, tả ít, theo tà thực hư

Thuốc nhi khoa nhẫn từ sư tổ
Để ngày nay chứng tỏ mọi đằng
Cao thâm y thuật thung thăng
Cảm ơn liệt vị cung hằng sáng soi

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
4.5.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 61

Trẻ ấu thơ mặn mòi cá nước
Đức hiếu sinh thao thức lòng trời
Tổ sư bào chế cứu đời
Bệnh nào thuốc ấy rạch ròi xưa nay

Lợi thế tục nhiều thày chẳng ngại
Lang băm càng tác hại tiểu sinh
Kỳ Hoàng đạo học chứng minh
Khen thay trị bệnh thấu thấu hình thực hư

Đơn thuốc hay chân như cứu độ
Danh tiếng thơm sư tổ ghi công
Học trò rõ chước biến thông
Huyền vi y thuật mênh mông tấm lòng

Kiếp nhân sinh long đong trời đất
Thuốc nhi đồng sài giật nóng ban
Tử kim đĩnh, khỏi luận bàn
Quánh đờm ho nặng gian nan vô cùng

Bệnh sởi đậu phải dùng trợ vị
Lở lưỡi môi từng tí nhẹ nhàng
Kê đơn hóa độc đúng thang
Bảo long tinh tán thung thăng đáng tiền

Thiên châm hoàn, giảm liền nôn mửa
Sốt hãm luôn cứu chữa tới nơi
Nên dùng lô hội kịp thời
Chứng cam nên nhớ rạch ròi trước sau

Thuốc đã có phải mau ứng dụng
Ngư với Tiều tìm đúng phương hay
Hai chàng gặp bạn là may
Nhập Môn ưu ái tháng ngày chỉ cho

Đệ tử ruột tài cao uyên bác
Kỳ Nhân Sư tọa lạc nơi nao?
Ngư Tiều cảm khái dạt dào
Mong thày trở laị nghẹn ngào lệ sa

Khắp thiên hạ trăm nhà ngưỡng mộ
Bạn của thày tri cố hai ông
Họ tên là Hưởng Thanh Phong
Ảnh Minh Nguyệt lão tinh thông y truyền

Chẳng vướng bụi thiên nhiên tạo hóa
Bậc chân nhân tỏa đóa hoa mai
Thanh tâm khí tượng anh tài
Mỗi người một vẻ gót hài thần tiên

Thày ta vẫn thường xuyên thăm viếng
Với bạn hiền nức tiếng gần xa
Sẵn lòng Sào, Hứa ngâm nga
Tề, Di mát mặt trăng ngà bể dâu

Ba mươi sáu cung bầu hạc lỷ
Hưởng Thanh Phong tri kỷ mấy ai
Kỳ Nhân Sư một thiên tài
Ảnh Minh Nguyệt cũng hương lài thoảng bay

Vòng hối thực men say thoát khỏi
Đời tối bưng le lói bình minh
Ngẩn ngơ nhìn lại bóng mình
Mây lồng đáy nước lung linh góc trời

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
5.5.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 62

Hai mươi tám sao chơi bốn biển
Chán hư danh hiện diện dáng hình
Gương thềm ngọc thỏ lung linh
Vầng trăng sáng tỏ cung nghinh tiếng đàn

Nhập Môn đang chứa chan thơ đọc
Bỗng khách đâu mời mọc thỉnh cầu
Chúa Liêu triệu đến sân chầu
Tôn sư rầu rĩ mái đầu tuyết sương

Chức thái sư Liêu vương ép buộc
Bổng lộc nhiều bốc thuốc kê đơn
Tôn sư căm giận oán hờn
Dật dờ sớm tối chập chờn bóng mây

Lòng bi phẫn bấy chầy thân phận
Kỳ Nhân Sư tủi hận chẳng ra
Dân tình thống khổ kêu la
Cửa nhà tan nát sơn hà giá băng

Thày cáo bệnh chẳng màng chức tước
Sợ triều đình ngờ vực sinh nghi
Nhập Môn chẳng rõ bệnh gì?
Vội vàng chuẩn bị ra đi thăm người

Ngư Tiều cũng tức thời biện lễ
Huynh đệ càng tri kỷ tương thân
Đan Kỳ theo lối đi gần
Gió nồm nam thổi đằng vân ráng chiều

Trời miền tây tiêu điều cảnh vật
Làn hơi sương phảng phất hồ sen
Non Kiều cây mọc cỏ chen
Hang sâu vực thẳm bao phen tuyết dày

Hươu vào động hạc bầy về núi
Ba người vừa cắm cúi bước vào
Thấy ngay Đạo Dẫn đón chào
Mời vào y quán nghẹn ngào trước sau

Thày chẳng chịu tự mù đôi mắt
Chốn thiên thai đóng chặt cửa thiền
Xông hai mắt đỏ triền miên
Sứ Liêu cũng chịu lụy phiền não thân

Cảnh nước mất nhà tan tang tóc
Dân lầm than kêu khóc khổ đau
Oán cừu thù hận theo nhau
Trẻ già trai gái dãi dầu nắng mưa

Nhập Môn nghe nhặt thưa lã chã
Giọt thương người lọ đá nát lòng
Trách thầm Minh Nguyệt Thanh Phong
Không ngăn cản được, hai ông phụ thầy

Không cố khuyên để vầy sao nỡ
Cảnh mù lòa món nợ y khoa
Tật tàn đôi mắt ướt nhòa
Di, Tề ẩn dật muối rau qua ngày

Nơi non Thú ai hay cam chịu
Chẳng chịu quỳ bám víu nhà Chu
Quản chi rừng núi âm u
Mai danh ẩn tích thiên thu u hoài.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
5.5.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 63

Đơì chiến quốc tranh tài vương bá
Danh chẳng sờn sắt đá kinh luân
Như ông Qủy Cốc ẩn thân
Học trò tuấn kiệt non gần đỉnh xa

Núi Thương Sơn bao la hùng vĩ
Bốn lão phu an trí tuổi già
Công danh chi nữa đá bia
Nào ai ràng buộc bên rìa tử sinh

Thú cày câu mặc tình lộc Hán
Nghiêm, Châu cùng lánh nạn công hầu
Tiên sinh Ngũ Liễu dãi dầu
Gặp cơn Tấn loạn mái đầu bạc phơ

Đào tể tướng hững hờ phú quý
Tướng sơn trung quy lụy phiền ai
Chúa Lương khuất lễ vật nài
Mới ra giúp sức trổ tài công huân

Tùy vô đạo dấn thân dạy học
Họ Vương kia khó nhọc Phần Hà
Luyện rèn mưu sĩ tại nhà
Trúc Lâm chén rượu nhân hà sầu ly

Bọn Lan Đình nhung y lả lướt
Thơ nhạc say sướt mướt với ai
Bụi Hồ vẩn đục chi hoài
Hành tàng hai chữ nguôi ngoai nỗi lòng

Hãy gỡ bỏ hết vòng danh lợi
Vật ngoài thân chới với bạc tiền
Sống cùng non nước thần tiên
Chính tâm an tọa sầu miên khước từ

Thuở Yêu Ly riêng tư khác biệt
Khổ nhục nào nhất thiết trừ hung
Lo âu tiếng nhạc mịt mùng
Như ông Sư Khoáng đường cùng thảm thay

Tự xông khói mù ngay đôi mắt
Trời nỡ lòng xiết chặt dây oan
Sao không dốc sức khuyên can
Để cho Sư Phụ tật tàn bấy nay?

Đạo Dẫn than giãi bày mọi lẽ
Nào ngờ đâu rành rẽ lời hay
Thày rằng: Trời đất xưa nay
Vần xoay khí vận đổi thay chính tà

Vũ trụ luận nhân hà thế tục
Xen hình hơi thúc giục trôi ra
Hiếu sinh con tạo thiết  tha
Dưới là ngũ nhạc trên là tam quang

Đường chính đạo thênh thang ta bước
Còn cách nào tỉnh thức lê dân
Yêu ma ác quỷ vô thần
Xâm lăng lấn chiếm giết dần chúng sinh

Đời ngũ đế thái bình thịnh trị
Là bởi vì vận khí thịnh lên
Nhân hòa hợp với hoàng thiên
Ba giềng năm dạy tự nhiên an lành

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
6.5.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 64

Khi vận ách trời xanh u ám
Đầy gian truân ảm đảm châu đông
Ghe keo lạc Sở mênh mông
Bảy hùng năm bá tranh công lấp dòng

Hết nhân nghĩa đỏ lòng xanh vỏ
Bầy cáo chồn mọi rợ vô luân
Thánh hiền nấp bóng dấu thân
Cọp trong rừng vắng khí phân rối nùi

Chịu cơ cầu phanh phui đâu dám
Sự đời càng thê thảm thương đau
Tôi loàn con giặc tranh nhau
Hơi tà ngăn bủa bạc màu sơn khê

Hơi chính đâu dãi dề năm tháng
Chẳng còn nhiều cay đắng ê chề
Than ôi! Cái giản nước tề
Ba lần quan sử nối đề “ thí vua“

Vua nước Tấn đối đầu trước hết
Làm đồng hồ ngòi viết biên ra
Chính cây chùy Bác Lãng Sa
Trương Lương vì chúa đánh xa Tần Hoàng

Bay phần phật Tô lang cờ tiết
Nô đọa đày thảm thiết gian nan
Mất đầu lão tướng Nghiêm nhan
Trương Phi uất khí ngút ngàn bể khơi

Chẳng chịu nhục ngậm cười chín suối
Chính khí dâng dong duổi  đế y
Máu trào Kê Thiệu cứu nguy
Cảo Khanh miệng lưỡi lâm ly chúa mình

Thường Sơn kia cực hình chửi giặc
Miệng Trương Tuần bạo tặc thất kinh
Tuy Dương khảng khái bất bình
Mắng bầy giặc dữ  Quản Ninh kém gì

Thời Tam quốc tru di cửu tộc
Mất ô sa thảm khốc điêu linh
Chính làm tờ biểu xuất chinh
Ra quân bắc phạt Khổng Minh phất cờ

Chèo Tổ Địch sang bờ dẹp loạn
Diệt Yết Đê táng tận lăng loàn
Qua sông cái hốt họ Đoàn
Chặn đầu quan hoạn mưu gian soán Đường

Hơi chính khí vấn vương tỏa sáng
Ngọn lửa hồng bi tráng dấu ghi
Một trường oanh liệt phù trì
Nên câu ”thiên trụ địa duy” vững vàng

Dòng hơi chính lang thang tản mạn
Lạc xa đàng tao loạn sói mòn
Dửng dưng thời cuộc nước non
Chia năm sẻ bảy héo hon dường nào

Vòng phú quý lao xao nhầy nhụa
Cảnh triều đình nhớp nhúa gian thần
Sớm tôi, tối chúa vô luân
Mua quan bán tước bất nhân lộng quyền

Quỳ mọp lạy hoàng thiên thánh thượng
Mưa móc xin ban thưởng tước vương
Chúa Liêu kiêu ngạo khinh thường
Lê dân bách tính thê lương hãi hùng

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
8.5.2020 Lu Hà








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét