Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2020

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 68


Đoạn Trường Sầu Ly (7)

“Nghĩa tình bao kiếp phiêu diêu
Kiếp này lại nối thêm nhiều kiếp sau
Dù cho cây cỏ nát nhàu
Đá vàng ta vẫn giữ màu thủy chung


Đan Siêu thương cảm vô cùng
Bạc đầu chi để não nùng phấn son
Vườn nhà chim hót véo von
Thiếp chàng tươi trẻ nước non muôn vàn“

Đan Siêu là một danh tướng đời Hán, suốt đời trấn giữ ở biên cương xứ Tây Vực 31 năm dài đằng đẵng, lập nhiều chiến tích công trạng khi về nhà đã quá 81 tuổi.

“Theo chàng như bóng mây ngàn
Đi đâu thiếp cũng nồng nàn thiết tha
Lên lầu cùng ngắm trăng ngà
Mọi bề trung hiếu mẹ cha an lòng

Tiếc rằng vó ngựa long đong
Thuyền Vu tắm máu lại mong tai thù
Nhục Chi thảm cảnh âm u
Tý dân ngả ấy thiên thu ưu phiền“

Người vợ lính tự độc thoại tâm sự với cái bóng của mình hàng đêm trước ngọn đèn dầu rằng trái tim nàng, tình yêu chung thủy luôn dành cho chồng, dù nay phải xa cách ngàn trùng, nhưng hy vọng một ngày chàng sẽ lành lặn trở về. Vợ chồng sẽ yêu nhau đằm thắm hơn xưa. Nhưng tiếc rằng chiến sự còn đang căng thẳng với quân rợ Hung Nô mà Thuyền Vu là lãnh chúa. Lệnh vua ban xuống tướng sĩ hễ ai lấy được đầu giặc chỉ cần xẻo vành tai trái mang về sẽ được trọng thưởng. Nhục Chi là một xứ khỉ ho cò gáy, rừng sâu nước độc một nước nhỏ ở miền Tây Vực. Tý dân là hành động dũng cảm che chở cho dân lành thuộc lãnh thổ Hán sát với các nước lân bang như Hung Nô, Nhục Chi, Lâu Lan v. v…

“Siêu Sùng, Ngụy Phổ sầu miên
Mẫu đơn vàng tía thay phiên úa màu
Công danh huân tước chen nhau
Chữ đồng bia đá trước sau mấy hồi

Thê phong ấm tử đền bồi
Ấn vàng mũ áo ghế ngồi cao sang
Lạc Dương hổ thẹn bẽ bàng
Lao nhao một lũ kém chàng một khi“

Theo điển tích nhà Siêu Sùng hay có người gọi là Diêu Sùng có hoa mẫu đơn vàng tiếng Hán Việt là “hoàng“, nhà Ngụy Nhân Phổ có hoa mẫu đơn màu tía gọi là“tử“ mọi người đều gọi là Diêu Hoàng hay Siêu Hoàng và Ngụy Tử.
Nói đến công danh huân tước là ước mơ của các bậc nam nhi theo lời khuyên của Khổng Tử. Làm trai phải đánh đông dẹp bắc để tiếng thơm cho non sông. Tu thân tề gia bình thiên hạ mà không tránh khỏi những bi cảnh tang thương như câu chuyện ân oán giữa người quân tử Ngô Thì Nhậm và kẻ tiểu nhân như Đặng Trần Thường. Tôi đã tham khảo các bài viết của các bậc trí giả họ đều khen ngợi hai người đối đáp nhau chữ nghĩa thật là thâm sâu, học vấn uyên bác. tôi xin trích dẫn tóm tắt sơ lược như sau:
Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm “Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai”
Vế đối hiểm hóc vì có 5 chữ ai và có chữ trần là tên đệm của Đặng Trần Thường

Ngô Thì Nhậm hiên ngang đáp lại: “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.(Vế đối lại cũng có 5 chữ thế, nói lên được hoàn cảnh và khí phách của người anh hùng. Và vế đối cũng có chữthời là tên đệm củaNgô Thời Nhiệm)

Hai bên đối nhau chan chát, cực kỳ chuẩn không sai luật đối một ly. Quả là lời lẽ và từ ngữ của bậc quốc sĩ, nói theo kiếm hiệp Kim Dung, hào khí ngất trời. Câu đối lại của Ngô Thì Nhậm:Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế hoặc là :Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại như câu nói "thế đành theo thế"(hay thế thời theo thế hoặc là thế thì phải thế).Ngô Thì Nhậm không thèm trả lời. Thường tức giận sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông. Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào lục phủ ngũ tạng, biết mình không qua khỏi, trước khi chết ông có làm bài thơ gửi Đặng Trần Thường :

 “Ai tai Đặng Trần Thường,
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường.

Nghĩa là : Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cục của ngươi rồi cũng thế đó. Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị Gia Long xử tử.Trước khi kết thúc xin được nói thêm Ngô Thì Nhậm còn có thêm biệt tài về tướng số và bói toán vì vậy ông mới biết được Đặng Trần Thường sau này bị nhục tử.
Lạc Dương chỉ Tô Tần người Lạc Dương làm nghề thuyết khách ton hót dèm pha bày đặt mưu kế đểu để hại người khác, gây ra các cuộc chiến tranh đẫm máu cuối cùng bị người ta đâm chết tươi ở nước người như một con chó dại.

“Trướng hoa mai trúc đền nghì
Xin chàng cởi giáp nhâm nhi chén tình
Mong sao mình lại thấy mình
Đốt lò hương nguyện thần linh cảm sầu

Dòm song chênh chếch bóng câu
Gối loan thấm ướt từng câu nghẹn ngào
Mạch tương thơ lại tuôn trào
Cùng chàng đổi ấm duyên đào đòi phen“

Đây chỉ là ước mơ huyễn hoặc của người vợ mong ngày ca khúc khải hoàn chồng trở về và hai người ân ái với nhau chén tạc chén thù, hoặc nhâm nhi chén trà nóng, khói bốc lên ngào ngạt.

“Sông xưa vẩn đục đánh phèn
Trong veo suối mát hoa chen nhụy vàng
Aí ân cho bõ thiếp chàng
Bao năm xa cách hoài lang mộng tàn

Rượu khà oanh yến chứa chan
Loan bồng phượng bế nồng nàn hơn xưa
Dây uyên thánh thót hay chưa
Phím loan dìu dặt nhặt thưa canh trường”

Cảnh vợ chồng đoàn viên này sao mà xao xuyến đầm ấm giống cảnh tái hồi Kim Trọng thế? Nàng Kiều sau 15 năm lưu lạc giang hồ tưởng trầm mình xuống sông Tiền Đường thủ tiết với chồng là đại vương Từ Hải là xong mà cũng chưa hết chuyện. Cụ Nguyễn Du cho Kiều sống lại để gặp chàng Kim Trọng theo cái ước vọng có hậu rất nhân bản của người Việt Nam và tôi cũng theo cụ Nguyễn Du mô tả cảnh hội ngộ này bằng thơ song thất lục bát trong tập Tài Mệnh Tương Đố:

“Kiệu hoa rước vi vu gió thổi
Đến phủ nha chiều tối chong đèn
Vội vàng mở tiệc đoàn viên
Nàng Vân đứng dậy nói liền một thôi

Theo lân lý tái hồi duyên chị
Cơn ba đào buộc chỉ chân em
Cùng là máu chảy ruột mềm
Cơ trời tác hợp nỗi niềm xuân thu

Chim hạc trắng vân du đây đó
Chốn tha phương tìm chỗ nương thân
Phong trần dầu dãi bao lần
Đủ mùi cay đắng xa gần nhớ tên

Bao thống khổ sầu miên thảm thiết
Mười lăm năm da diết bóng hình
Bây giờ mình lại thấy mình
Trăng thề trả lại nghĩa tình còn nguyên

Sớm lo liệu tơ duyên nối lại
Gương đã lành còn ngại ngần chi
Mới là mai trúc đền nghì
Phận em sao dám so bì thiệt hơn

Kiều gạt đi đền ơn trả oán
Cuộc bể dâu đại nạn đã qua
Thà rằng sương gió mịt mùa
Dong chơi đáy biển cá cua nhẹ nhàng

Cõi trần tục mơ màng chi nữa
Xét thân mình đôi lứa xứng chăng
Chen chân hổ thẹn bẽ bàng
Nương nhờ cửa Phật khói nhang thỏa lòng

Thân bồ liễu long đong đây đó
Chốn lầu hoa trăng gió chán chê
Nắng mưa dầu dãi ê chề
Mặt dày mày dạn ong ve bướm vờn

Thấy son phấn giận hờn số phận
Bén mùi thiền tinh tấn dễ ưa
Đẹp chi liễu nát hoa thừa
Càng khơi động lại càng cưa cắt lòng

Ân ái tha đèo bòng chi nữa
Nhìn thấy nhau chan chứa tình thương
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Dưới nhường trên kính xuân hương thuận hòa

Chàng Kim đã thấm nhòa tay áo
Nghe trong lòng gió bão mưa sa
Nỗi niềm khao khát thiết tha
Quản chi sấm sét mới là thủy chung

Thuyền tình ái chập chùng biển cả
Trót một lời vàng đá thâm giao
Trong mơ hồn vẫn khát khao
Nửa đêm gà gáy nghẹn ngào sắt son

Mười lăm năm héo hon thểu não
Ngóng tin hoài ruột cạo dao bào
Nắng mưa dầu dãi hư hao
Đêm ngày tưởng nhớ lẽ nào buông xuôi?

Đóa phù dung nổi trôi dòng nước
Đạo vợ chồng có trước có sau
Hoa thơm phong nhị sắc màu
Chữ trinh đáng giá vàng thau nào bằng

Nay thiếp lại với chàng giao bái
Đuốc hoa càng tê tái xót xa
Trông trăng luống thẹn Hằng Nga
Ong qua bướm lại xấu xa đã thừa

Cái hồng nhan vẫn chưa đủ nát
Trần cấu còn bày đặt bố kinh
Biết là chàng nặng chữ tình
Ngàn năm bia miệng dơ mình nghĩ sao?

Thiếp khép cửa phòng đào oanh yến
Quyết nửa đời dâng hiến nhà chùa
Chẳng tu thì cũng bốn mùa
Ăn chay niệm Phật thêu thùa tâm linh

Quyên sao được mối tình xưa đẹp
Hình ảnh còn vạn kiếp phôi pha
Đem tình cầm sắt đổi ra
Cầm cờ tri kỷ mới là thiên thu

Chữ trinh cũng mịt mù giông bão
Ba bảy đường trong đạo đàn bà
Như nàng lấy hiếu mẹ cha
Bùn nào vẩn đục nõn nà ngó sen?

Đóa sen kia còn chen hương nhị
Cát bụi lầm thế kỷ tàn phai
Nhưng mùi hoa vẫn dằng dai
Hồn trinh phảng phất trang đài nguyệt hoa…“

khi cha mẹ và cả nàng Vân nài ép và Kim Trọng cũng nài nỉ thì nàng kiều chỉ chấp nhận thành hôn với kim Trọng có tính chất tượng trưng nhưng dứt khoát không chung đụng chăn gối. Nàng đối xử và kim Trọng như hồng nhan tri kỷ như bạn bè văn chương thôi. Kiều đã xuất gia và có am tu ở vườn ngay trong phủ quan Kim Trọng.

Xin trích dẫn đoạn tiếp:
“…Lòng phỉ nguyện ba sinh tái tạo
Duyên lứa đôi giao hảo bạn bè
Cuốc kêu tu hú gọi hè
Trăng lên hoa nở tiếng ve rộn ràng

Khi chén rượu lại càng say đắm
Đọ mưu cờ lá thắm xanh tươi
Bi bô tiếng trẻ thơ cười
Con nàng Vân đó vui đời thảnh thơi

Dạy cháu học làm người tích sự
Chẳng lãng quên thờ tự am mây
Đến nơi chẳng thấy bóng thầy
Sân rêu hiu quạnh cỏ đầy mái hiên

Nặng chút nghĩa trai thiền tịnh thất
Khói nhang bay dào dạt hương sen
Phong lưu tài tử ngợi khen
Một cây đại thụ hồn nhiên quế hòe

Vườn xuân tạc lập lòe bia đá
Để muôn đời con cháu noi theo
Sá chi giậu đổ bìm leo
Đảm đang cát lũy trăng treo ngọn đào

Nền phú hộ dồi dào ân trạch
Quan giai luôn hiển hách gia đình
Trọn hay trời đất công minh
Ngàn năm nức tiếng hiếu sinh cao đài

Tâm với tài tuy hai là một
Tài với tâm tưởng một hóa hai
Phải đâu ghét bỏ nhau hoài
Vì không khéo giữ trần ai hãi hùng…”

Khi nghe Thu Hà ngâm hay quá tôi mới hứng khởi viết thêm một đoạn dài 44 câu nữa và cũng thấy không nhất thiết đăng ở đây, vì đoạn này không được ngâm.
Kết thúc bài bình giảng cuối cùng xin cảm tạ tri ân nghệ sĩ Thu Hà đã ngâm thơ tặng tôi và tặng đời.

12.11.2019 Lu Hà























Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét