Tài Mệnh Tương Đố
“Video 65“
“Thế mới biết thê lương tam giáo
Đạo tòng phu gượng gạo chớ trêu
Bạo quyền nén bạc đầu têu
Thân tàn ma dại tiêu điều kỷ cương
Bởi lắm kẻ nhiễu nhương xã hội
Chốn lầu vàng tội lỗi gây ra
Cao lâu biệt phủ xa hoa
Ép người qúa đáng nhạt nhòa tang thương“
Việt Nam cũng như Tàu và các nước Á đông chịu ảnh hưởng bởi 3 tôn giáo lớn là Khổng, Lão và Phật duy chỉ có nước Nhật là còn chịu ảnh hưởng thêm nền văn minh phương Tây với nền triết học hiện sinh khai phóng nên đã thoát lên trở thành một siêu cường kinh tế khoa học kỹ thuật hiện đại.
Cái gọi là tam giáo hòa đồng và đạo thờ kính ông bà tổ tiên đã trở thành phong tục tập quán lối suy nghĩ của người Việt Nam có mặt rất tích cực và rất tiêu cực. Theo tôi nếu ta loại bỏ cái Khống giáo đi mà chỉ giữ lại Lão, Phật và đạo thờ cúng ông bà tổ tiên và du nhập thêm đạo Công Giáo thì đất nước ta sẽ dân chủ tiến bộ biết bao nhiêu?
Sau khi thời Xuân Thu hơn hai nghìn năm, ngoại trừ Phật giaó không có giáo phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa vùng Trung thổ bằng Nho giaó và Đạo giaó. Bởi vậy, ông tổ của 3 giaó phái này là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.
Thật trùng hợp cả 3 vị ấy ra đời chênh lệch nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng thời.
Lão Tử tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử”
Khi Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói:“Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”.
Lão tử biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”.Sau đó ông cưỡi trâu trắng đi mất hút.
Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.
Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.
Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”
-Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.
-Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.
-Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.
-Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu Thi Kinh, Thượng Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu, nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.
Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.
Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.
Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.
Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” nghĩa là không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.
Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.
Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.
Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.
Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.
Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ Xuân Thu.
Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”.7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi.
Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ. Cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.
Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Ca tỳ La vệ, một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini nằm ở Nam Nepal ngày nay. Trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế dám bịa ra để gán vào mồm ngài
Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện.
Ngài không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.
Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.
Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ.
Bởi vì năng lượng phóng ra trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.
Đặc điểm của pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.
Lời nói và việc làm của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ.
Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, tại Trung Quốc, Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của những quốc gia này.
Như tôi đã nói cái giáo lý của Khổng Tử thật ra chỉ là những ghi chép sao lục từ các đời trước nhất là nền lễ nhạc nhà Chu. Không phả là một hệ thống triết học có lô rích. Khổng Tử còn nói những câu cực kỳ phản động phản tiến bộ phản dân chủ như: Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu. Cái gọi là trung hiêú cả Khổng Tử thật là tăm tối man rợ. Với phụ nữ Khổng Tử còn chèn ép đe nẹt làm họ sống như con giun con dế không bao giờ ngóc cổ lên được để làm con người tự do đúng nghĩa như thượng đế, thiên Chúa đã sinh ra:
“Tại gia tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử.”
Chính những mớ chữ nghĩa lăng nhăng đó đã làm khổ Hoạn Thư và Vương Thuý Kiều. Câu chuyện diễn biến tâm lý rất phức tạp cuả hai người đàn bà được tôi miêu tả rất chi tiết qua những vần thơ song thất lục bát. Hoạn Thư cố ý để ngỏ một con đường cho Thúy Kiều. Cả ba nhân vật Thúy Kiều, Kim Trọng và Hoạn Thư chốt lại khéo cùng nhau một chữ “ trốn“.
“Nghe tiếng động bên đường hoa lá
Chim chóc bay vội vã lảng ra
Hoạn Thư rạng rỡ thướt tha
Miệng cười đon đả mặn mà lả lơi
Chàng vừa mới lại chơi vãn cảnh
Sinh liệu lời biện bạch quanh co
Chiều xuân vui vẻ cánh cò
Chép kinh bổn phận mà lo cho người
Lập hương án tìm nơi tế tự
Chùa thênh thanh cư ngụ ni cô
Tiếc thay lưu lạc giang hồ
Lan đình bút pháp đem so thực tài
Thiền trà uống hồng mai thư thả
Rồi khoác tay bả lả ra về
Mặt Kiều xanh tái ủ ê
Nô tỳ mới lại tỉ tê tỏ tường
Bà đã đứng bên đường rình rập
Nhờ cành hoa phủ lấp thân hình
Bao nhiêu nỗi khổ ân tình
Thúy Kiều cùng với Thúc Sinh nồng nàn
Người vật vã kẻ than thân phận
Nỗi kinh hoàng lận đận khổ đau
Rạch ròi uẩn ức trước sau
Chán tai bà mới bước mau lên lầu
Kiều sợ hãi người đâu nham hiểm
Sắc nước đời cũng hiếm xưa nay
Ghen tuông lại chẳng nói ngay
Thương thay chàng Thúc bó tay chịu đòn
Lòng chẳng được thì còn thân xác
Mối tình hờ gỡ gạc tiểu thư
Lại còn bày biện chân như
Xây chùa cúng Phật thuyền từ đảo điên
Ta vốn dĩ thuyền quyên thục nữ
Cũng con nhà lễ tự như ai
Chẳng may lạc bước gót hài
Sắc hoa phong nhị hương lài phôi pha
Thôi ta phải bay xa cao chạy
Dù thiêu thân lửa cháy cũng cam
Sân chùa le lói khói lam
Mái hiên chênh chếch trăng rằm sáng soi
Dù ngăn sông mặn mòi cá nước
Rào cây lâu sây xước cánh hoa
Miệng hùm nọc rắn điêu ngoa
Chàng thì nhu nhược thuận hòa được chăng?
Phật đường sẵn bạc vàng của báu
Để hộ thân phải dấu mang theo
Tần ngần ngọn gió hắt heo
Canh ba giờ tý quyết trèo tường qua“
8.12.2019 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét